Những giải pháp thay thế cho thuốc kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi
11-07-2016
Do lệnh cấm hoàn toàn việc sử dụng thuốc kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi trong khối Châu Âu EU, nhu cầu cấp thiết để tìm giải pháp thay thế trở thành 1 chủ đề đáng lưu ý trong thời gian vừa qua. Giáo sư Vassilios G. Papatsiros của trường đại học Thessaly của Hy Lạp đã hợp tác cùng các Sở Y Học ở các học viện danh tiếng tại Hy Lạp để hoàn thành bài viết nghiên cứu chi tiết về những giải pháp thay thế hiệu quả kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi. Theo giáo sư, những giải pháp này gồm có – Acid hữu cơ, thảo dược, probiotic, prebiotic, và khoáng chất silicat nhôm.
Giới thiệu chung về các giải pháp thay thế và cơ chế hoạt động của chúng
- Axit Hữu Cơ
Axit hữu cơ là những chuỗi axit có cấu trúc chung R-COOH. Chúng được phân bố rộng rãi dưới dạng tự nhiên trong thành phần của thực vật hoặc các mô động vât, và cũng được hình thành thông qua quá trình lên men vi sinh của carbohydrates, chủ yếu ở ruột già. Hầu hết những axit hữu cơ có hoạt tính kháng khuẩn riêng biệt là những chuỗi axit ngắn (C1-C7, SCFA) và có độ pK từ 3 đến 5.
Các axit hữu cơ được sử dụng phổ biến trong thức ăn chăn nuôi gồm có formic, axetic, propionic, butyric, lactic, sorbic, fumaric, tartaric, citric, benzoic, và malic, và được chia làm 2 nhóm dựa theo đặc tính của chúng. Nhóm thứ nhất gồm có lactic, fumaric, citric có đặc tính gián tiếp giảm thiểu số lượng vi khuẩn bằng cách giảm trừ độ pH trong dạ dày; trong khi đó, nhóm thứ hai gồm có formtic, axetic, propionic và sorbic có đặc tính tác động trực tiếp làm giảm độ pH trong đường tiêu hóa trên tế bào của vi khuẩn Gram.
Các cơ chế hoạt động của axit hữu cơ bao gồm khả năng giảm thiểu độ pH trong dạ dày, cải thiện hoạt động của các enzyme phân giải protein và tiêu hóa chất dinh dưỡng, kích thích các hoạt động tiêu hóa của enzyme, cân bằng số lượng quần thể vi khuẩn và thúc đẩy tăng trưởng của các vi khuẩn có lợi, giảm thiểu khả năng sống sót của các tác nhân gây bệnh, và trực tiếp diệt trừ các vi khuẩn có hại.
Tác dụng của axit hữu cơ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sau: độ pK của axit, tỷ lệ của các loại axit bổ sung, thành phần của chế độ ăn và khả năng đệm của axit hữu cơ, các hoạt động của axit nội tại ở động vật, khả năng miễn dịch nhờ tiêm phòng của lợn/gà mẹ, tuổi của động vật, và hơn hết là điều kiện và tiêu chuản vệ sinh của trại chăn nuôi.
- Thảo dược tự nhiên
Việc sử dụng thảo dược tự nhiên làm phụ gia trong thức ăn chăn nuôi được quan tâm nhiều hơn trong những năm gần đây. Thảo dược tự nhiên trong chuyên ngành thức ăn chăn nuôi được định nghĩa là các hợp chất có nguồn gốc từ thực vật đưa vào trong khẩu phần dinh dưỡng của gia súc – gia cầm, ví dụ như các loại thảo mộc, hương liệu và các loại dầu thiết yếu cho dinh dưỡng động vật. Chúng có rất nhiều lợi ích cho động vât, từ việc thúc đẩy tăng trưởng của động vật qua việc cải thiện đặc tính dinh dưỡng của thức ăn, thúc đẩy hoạt động sản xuất của động vật, tới việc nâng cao chất lượng thực phẩm đem lại lợi ích cho con người thông qua quá trình gián tiếp cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết của thảo dược qua lợn hay gà thịt.
- Probiotic
Probiotic gồm các cá thể hoặc hỗn hợp của vi khuẩn axit lactic, nấm men vi sinh, hoặc các sản phẩm sinh học cuối của chúng. Probiotic sử dụng trong thức ăn chăn nuôi thường được chia thành các loại sau: 1. Các nấm men và vi khuẩn sống; 2. Các nấm men và vi khuẩn đã qua xử lý nhiệt hoặc bật hoạt tính; 3. Sản phẩm lên men cuối cùng từ nấm men hoặc vi khuẩn. Cơ chế hoạt động của men vi sinh probiotic bao gồm: a. cạnh tranh giữa các loại nấm men và vi khuẩn của probiotic với các vi sinh vât gây bệnh ở niêm mạc ruột; b. sự hữu hiệu của chất dinh dưỡng; c. Khả năng áp chế sự phát triển mầm bệnh qua cơ chế sản xuất axit hữu cơ và các hợp chất có đặc tính giống như kháng sinh.
Các chủng vi khuẩn của men vi sinh probiotic thông dụng nhất bao gồm Bifidobacterium (B. bifidum, B. pseudolongum), Lactobacillus (ví dụ như L. acidophilus, L. casei, L. rhamnosus), Bacillus (ví dụ như B. subtilis, B. cereus, B. toyoi, B. licheniformis), Lactococcus (ví dụ như L. lactis), Enterococcus (ví dụ như E. faecium), Streptococcus (ví dụ S. thermophilus), Pediococcus, và Saccharomyces (ví dụ S. cerevisiae). Nhiều nghiên cứu đã chứng minh được tác dụng có lợi đối với sức khỏe và khả năng cải thiện hiệu suất phát triển ở động vật của các chủng vi khuẩn men vi sinh. Đặc biệt, probiotic có những tác dụng tích cực đối với: a) quá trình tiêu hóa – bằng cách gia tăng hoạt động của enzyme vi sinh và khả năng tiêu hóa hấp thụ thức ăn của động vật; b) khả năng miễn dịch – thông qua cơ chế kích thích hệ thống miễn dịch của động vật và tăng cường khả năng tái tạo tế bào ở niêm mạc ruột.
Tầm ảnh hưởng của việc sử dụng probiotic trong thức ăn chăn nuôi phụ thuộc đáng kể vào cách thức lựa chọn các chủng vi khuẩn để tạo nên hỗn hợp men vi sinh, liều lượng probiotic trong thức ăn, các tương tác của men vi sinh với các loại dược phẩm khác, thành phần thức ăn, và hơn hết là điều kiện bảo quản cùng công nghệ chế biến thức ăn chăn nuôi.
- Prebiotic
Prebiotic là các chuỗi ngắn carbohydrates hòa tan (chất xơ hòa tan – oligosaccharides). Prebiotic, đã được khoa học chứng minh, đem lại rất nhiều lợi ích cho sức khỏe và khả năng phát triển của động vật chăn nuôi, kích thích sự tăng trưởng của một hay nhiều loại vi khuẩn có lợi. Do prebiotic là các chất xơ hòa tan không tiêu hóa được, prebiotic có thể di chuyển tới đại tràng và hoạt động như một nguồn năng lương cho vi khuẩn, không giống như các loại đường sinh học thông thường có thể bị tiêu hóa trực tiếp. Vì vậy, các thành phần và hoạt động vi sinh vật sẽ bị thay đổi, dẫn đến các tác dụng phụ như tăng sản lượng khí và giảm trừ độ pH trong đường ruột. Prebiotic cũng có thể ngăn chặn cơ chế bám dính của các mầm bệnh trên niêm mạc bằng cách cạnh tranh với các thụ đường sinh học của chúng; một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng thức ăn được bổ sung với các loại oligosaccharides khác nhau có thể suy giảm khả năng nhiễm khuẩn Salmonella và E.coli.
Các oligosaccharides không tiêu hóa được phổ biến nhất được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi nhằm cải thiện hệ miễn dịch của động vật bao gồm có: Mannanoligosaccharides (MOS), Galactooligosaccharides, fructooligosaccharides (FOS), Soybeanoligosaccharides, Isomaltooligosaccharides, Xylooligosaccharides, lactulose, Inulin.
- Khoáng chất Zeolite
Zeolite là những tinh thể khoáng silicat nhôm có cấu trúc tinh thể xác định. Căn cứ vào cấu trúc độc đáo của chúng, zeolit (đặc biệt là clinoptilolite), đã được sử dụng làm chất phụ gia cho thức ăn chăn nuôi để cải thiện khả năng miễn dịch độc tố mycotoxin (độc tố vi nấm mốc sản sinh tự nhiên) và hiệu suất tăng trưởng của động vật. Gần đây, clinoptilolite đã được đăng ký sử dụng làm chất phụ gia cho thức ăn chăn nuôi trong khối liên minh EU, với hàm lượng lên tới 2% chất khô. Hiệu quả của chúng trong việc chống độc tố nấm mốc, cùng với khuynh hướng sử dụng sản phẩm hữu cơ không để lại chất dư trên động vật chăn nuôi, được dự kiến sẽ thúc đẩy việc sử dụng khoáng chất zeolite để thay thế kháng sinh trên thức ăn chăn nuôi.
Trên đây là những giải pháp hiệu quả đang được sử dụng rông rãi trên toàn thế giới để thay thế kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi và cải thiện sức khỏe cũng như hiệu suất tăng trưởng của gia súc – gia cầm.
Bạn có thể đọc bài viết đầy đủ của giáo sư Vassilios G. Papatsiros về cơ chế hoạt động trên từng đối tượng của các sản phẩm tại website dưới đây:
Bài viết này được giáo sư hợp tác cùng:
Clinic of Farm Animals, Faculty of Veterinary Medicine, Aristotle University of Thessaloniki, Thessaloniki, Greece
Department of Avian Medicine, Faculty of Veterinary Medicine, University of Thessaly, Karditsa, Greece
Department of Animal Husbandry, Ichthyology, Ecology & Environmental Protection, Faculty of Veterinary Medicine, Aristotle University of Thessaloniki, Thessaloniki, Greece
Dedousi’s Veterinary Practice, Assiros Thessaloniki, Greece